Bùn thải là gì? Các công bố khoa học về Bùn thải
Bùn thải là chất thải tồn đọng trong quá trình xử lý nước thải hoặc xử lý chất thải rắn. Bùn thải thường chứa các chất hữu cơ, vi sinh vật, các chất độc hại và ...
Bùn thải là chất thải tồn đọng trong quá trình xử lý nước thải hoặc xử lý chất thải rắn. Bùn thải thường chứa các chất hữu cơ, vi sinh vật, các chất độc hại và kim loại nặng. Nếu không được xử lý đúng cách, bùn thải có thể gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Bùn thải là một loại chất thải rắn tạo ra từ quá trình xử lý nước thải hoặc xử lý chất thải rắn. Khi nước thải hoặc chất thải rắn được xử lý, các hạt bùn và chất rắn được tách ra từ nước, tạo thành bùn thải.
Bùn thải thường chứa các chất hữu cơ, như chất béo, protein, các chất hữu cơ phân huỷ từ rác thải và hợp chất hữu cơ khác. Ngoài ra, nó cũng có thể chứa vi khuẩn, virus, nấm, giun đất và các loại sinh vật khác. Bên cạnh các chất hữu cơ, bùn thải cũng có thể chứa các chất độc hại như kim loại nặng, hợp chất hữu cơ halogen hoặc hợp chất hữu cơ khác có thể gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Xử lý bùn thải là một phần quan trọng trong quá trình xử lý nước thải hoặc xử lý chất thải rắn. Các phương pháp xử lý bùn thải bao gồm phân rã sinh học, khử trùng, phân tích hóa học và quá trình lọc. Mục tiêu của xử lý bùn thải là loại bỏ hoặc giảm nồng độ các chất ô nhiễm và tạo ra bùn thải đã qua xử lý an toàn cho việc di chuyển, xử lý hoặc tiêu huỷ.
Xử lý bùn thải hiệu quả rất quan trọng để đảm bảo môi trường và sức khỏe con người. Nếu không xử lý đúng cách, bùn thải có thể gây ô nhiễm nguồn nước, đất và không khí. Do đó, các quy trình và phương pháp xử lý bùn thải phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn môi trường.
Khi xử lý bùn thải trong quá trình xử lý nước thải, có một số phương pháp thông dụng như:
1. Quá trình lắng đọng: Bùn thải được tách ra khỏi nước bằng cách cho phép nó lắng đọng xuống dưới đáy hồ chứa. Quá trình này thông thường được thực hiện trong các hồ lắng, trong đó sự kết tủa và cục bộ hình thành của bùn thải được thúc đẩy bởi sự gia tăng của tốc độ trượt, tạo ra lực kết tụ.
2. Quá trình sinh học: Đây là quá trình sử dụng vi sinh vật như vi khuẩn và vi rút để phân hủy các chất hữu cơ trong bùn thải. Vi sinh vật tiêu hủy các hợp chất hữu cơ và chuyển chúng thành chất an toàn hoặc chất ít độc hơn.
3. Quá trình lọc: Bùn thải được đẩy qua các lớp vật liệu lọc để loại bỏ các hạt nhỏ và chất hữu cơ. Các vật liệu lọc có thể bao gồm cát, than hoạt tính, sợi lọc hoặc các vật liệu tổng hợp khác.
4. Quá trình khử trùng: Để tiêu diệt vi khuẩn và vi rút trong bùn thải, các phương pháp khử trùng như sử dụng ánh sáng UV, hóa chất khử trùng hoặc nhiệt độ cao được áp dụng. Điều này giúp loại bỏ hoặc giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường và nguy cơ lây nhiễm bệnh.
Sau quá trình xử lý, bùn thải đã qua xử lý có thể được sử dụng để làm phân bón hữu cơ, sản xuất năng lượng sinh học hoặc vứt bỏ an toàn.
Quá trình xử lý bùn thải cần tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn môi trường để đảm bảo rằng bùn thải đã qua xử lý không gây ô nhiễm và an toàn cho sức khỏe con người và môi trường tự nhiên.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bùn thải":
Larney, F. J. và Angers, D. A. 2012. Vai trò của vật liệu hữu cơ trong việc cải tạo đất: Một bài tổng quan. Can. J. Soil Sci. 92: 19–38. Một nguyên tắc cơ bản của quản lý đất bền vững là các hoạt động hiện tại của con người không gây hại cho các thế hệ tương lai. Đất đai bị suy thoái bởi các sự kiện tự nhiên (xói mòn) hoặc hoạt động công nghiệp. Một đặc điểm phổ biến của đất bị suy thoái hoặc bị xáo trộn là thiếu hụt chất hữu cơ so với các khu vực không bị xáo trộn lân cận. Các vật liệu hữu cơ, chẳng hạn như phân gia súc, bùn thải, sản phẩm phụ từ nhà máy sản xuất giấy, chất thải gỗ và phế liệu nông nghiệp, được sản xuất nhiều ở Canada và có thể được sử dụng rộng rãi trong việc cải tạo đất. Sản xuất bùn thải khoảng 0.5 Tg mỗi năm (trọng lượng khô); bùn nhà máy giấy được tạo ra ở tỉnh Quebec khoảng 2 Tg (trọng lượng ướt) vào năm 2002. Bài viết tổng quan này xem xét các cơ chế mà thông qua đó vật liệu hữu cơ ảnh hưởng đến tính chất đất (vật lý, hóa học, sinh học) và mô tả vai trò của vật liệu hữu cơ trong việc cải tạo, nhấn mạnh các loại vật liệu và tỷ lệ áp dụng cho việc cải thiện đất và sản xuất sinh khối. Việc áp dụng một lần lớn các vật liệu hữu cơ có thể thúc đẩy quá trình cải tạo ban đầu và dẫn đến năng suất sơ cấp tự duy trì. Các vật liệu hữu cơ dễ phân hủy có thể cung cấp hiệu ứng ngay lập tức, nhưng tạm thời, trong khi đó, các vật liệu ổn định, ít phân hủy hơn có thể mang lại hiệu ứng lâu dài hơn. Việc sử dụng vật liệu hữu cơ cho việc cải tạo là có lợi cho cả hai bên, trong đó các sản phẩm thải từ nông nghiệp, lâm nghiệp và đô thị giúp các lĩnh vực khác đạt được mục tiêu cải tạo đất của họ.
A soil arthropod community was studied in a dry evergreen forest over a 3‐year period from May 1998 to April 2001. Population abundance, species composition, and community structure were investigated over the 3‐year study period. The soil arthropods consisted of Acari (75.38%), Collembola (16.11%), and others (8.51%), and their abundances showed a clear difference between the rainy and dry seasons. Population abundance of Collembola and Acari were low during drought conditions. The humidity was the most important factor determining distribution, abundance, and survival of soil Collembola in this tropical forest. High predation and low accumulation of organic matter caused low population abundance of Collembola in the tropical habitat. The collembolan community was dominated by a few dominant species over the study period. The pattern of seasonal changes in numbers of Collembola was similar over the 3‐year study period. The species composition of the collembolan community was constant and persistent throughout a 3‐year study period. Thus, the collembolan community showed constancy in its species composition with seasonal variability over the 3‐year study period.
Tóm tắt. Rạn san hô nước lạnh (CWC) là những hệ sinh thái không đồng nhất bao gồm nhiều vi sinh thái. Một rạn CWC điển hình ở Châu Âu cung cấp nhiều vi sinh thái sinh học khác nhau (ở bên trong, trên và xung quanh các quần thể san hô như Lophelia pertusa, Paragorgia arborea và Primnoa resedaeformis, hoặc được hình thành từ các phần còn lại của chúng sau khi chết). Những vi sinh thái này có thể được bao quanh và trộn lẫn với các vi sinh thái không sinh học (trầm tích mềm, nền cứng, sỏi/đá cuội, tường dốc). Đến nay, số lượng các nghiên cứu về sự phân bố của động vật sessile trên các rạn CWC nhiều hơn so với các nghiên cứu về sự phân bố của động vật di động. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã định lượng mật độ tôm liên quan đến các loại vi sinh thái CWC chính tại Rạn Røst, Na Uy, bằng cách phân tích dữ liệu hình ảnh thu được từ thiết bị video kéo vào tháng 6 năm 2007. Chúng tôi cũng đã điều tra các mẫu phân bố của tôm ở quy mô địa phương (<40 cm) và cách mà những mẫu này có thể biến đổi với vi sinh thái. Mật độ tôm tại Rạn Røst trung bình cao gấp nhiều lần trong các vi sinh thái rạn sinh học so với các vi sinh thái không sinh học. Mật độ tôm cao nhất được quan sát thấy liên quan đến vi sinh thái Paragorgia arborea sống (43 tôm m−2, SD = 35.5), vi sinh thái Primnoa resedaeformis sống (41.6 tôm m−2, SD = 26.1) và vi sinh thái Lophelia pertusa sống (24.4 tôm m−2, SD = 18.6). Trong vi sinh thái không sinh học, mật độ tôm là <2 tôm m−2. Các vi sinh thái rạn CWC dường như hỗ trợ mật độ tôm lớn hơn so với các vi sinh thái không sinh học xung quanh tại Rạn Røst, ít nhất là vào thời điểm khảo sát.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10